NHÂN ĐỌC TIỂU SỬ CỤ NGUYỄN THƯỢNG HIỀN, HÃY TÌM HIỂU VỀ HỌC VỊ KHOA CỬ VÀ NHO GIÁO NGÀY XƯA- Phạm Đình Kính

Bài viết cho Đặc San NTH 2013
NHÂN ĐỌC TIỂU SỬ CỤ NGUYỄN THƯỢNG HIỀN, HÃY TÌM HIỂU VỀ HỌC VỊ KHOA CỬ VÀ NHO GIÁO NGÀY XƯA.
Phạm Đình Kính
Niên Khoá 12B -1974


Tiểu sử của cụ Nguyễn thượng Hiền ghi cụ là người xã Liên Bạt, tỉnh Hà Đông. Cụ đỗ Hoàng Giáp năm 1892 (tức là năm Thành Thái thứ 4). Vậy học vị Hoàng Giáp là gì? Chúng ta cũng được biết đến các học vị khác như: Nhất Giáp, Nhị Giáp, Tam Giáp, Tam Khôi, Tam Nguyên, Đình Nguyên, vv..
Bài viết này sẽ tóm tắt các kỳ thi và các bậc học vị của khoa cử ngày xưa. Sĩ tử ngày xưa phải trải qua các kỳ thi sau đây:
1. Sát hạch: Học trò phải làm một bài văn và nộp cho quan Huấn Đạo (vị quan trông coi việc học hành thi cử trong một huyện), nếu bài đạt đủ trình độ, thì sẽ được quan cho vào danh sách để đi thi Hương.
2. Thi Hương: Sĩ tử thi tại các trấn hay tỉnh và phải qua bốn kỳ hoặc bốn trường:
• Kỳ 1: Thi kinh nghĩa. Nếu đỗ kỳ thứ nhất, thì được gọi là Nhật Trường.
• Kỳ 2: Thi thơ phú. Ai đỗ kỳ thứ hai, thì được học vị Nhị trường.
• Kỳ 3: Thi chiếu, chế, biểu: Nếu đỗ kỳ thứ ba, thì được học vị Tam Trường hay Sinh Đồ (đời Lê) hoặc học vì Tú Tài (đời Nguyễn).
• Kỳ 4 (còn gọi là phúc hạch): Thi văn sách. Ai đỗ kỳ thứ tư, thì được học vị Hương Cống. Năm 1828, vua Minh Mạng đổi là Cử Nhân.
Người đỗ đầu khoa thi Hương được ban học vị Giải Nguyên. Chỉ những ai trúng tuyển Cử Nhân mới được phép thi Hội.
3. Thi Hội: Thi Hội được tổ chức tại Kinh Đô, các cống sĩ cũng phải trải qua bốn kỳ như thi Hương, nhung bài thì khó hơn. Ai đỗ đầu kỳ thi Hội được bạn học vị Hội Nguyên. Công sĩ vượt qua được bốn kỳ thi gọi là trúng cách và được vào thi Đình. Từ năm 1829, vua Minh Mạng đặt thêm học vị Phó Bảng cho những người bị loại ở kỳ 4, nhưng có điểm cao ở ba kỳ trước.
4. Thi Đình: Thi Đình được tổ chức tại cung điện. Bài thi gồm một bài văn sách do chính nhà vua ra đề. Nhà vua cùng các quan giám khảo sẽ chấm bài và quyết định thứ bậc. Thi Đình có ba học vị:
2
• Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ Cập Đệ gồm có ba thứ bậc gọi là Tam Khôi:
– Đệ Nhất Danh (Trạng Nguyên)
– Đệ Nhị Danh (Bảng Nhãn)
– Đệ Tam Danh (Thám Hoa)
• Đệ Nhị Giáp Tiến Sĩ xuất thân còn gọi là Hoàng Giáp. Đây chính là học vị của cụ Nguyễn Thượng Hiền.
• Đệ Tam Giáp Đồng Tiến Sĩ xuất thân gọi chung là Tiến Sĩ.
Không phải khoa thi Đình nào cũng lấy đỗ Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ. Có khoa người đỗ đầu thi Đình gọi là Đình Nguyên mà chỉ có học vị Hoàng Giáp hoặc Tam Giáp Đồng Tiến Sĩ.
Người đỗ đầu cả ba kỳ thi Hương, thi Hội, và thi Đình thì được ban học vị Tam Nguyên. Thí dụ như cụ Nguyễn Khuyến người làng Yên Đổ, Tỉnh Hà Nam đậu Tam Nguyên, nên được xưng tụng là Tam Nguyên Yên Đổ.
Khoa cừ ngày xưa đã chú trọng về học thuyết và triết lý của Nho giáo và Nho học đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Có một số người quan niệm rằng triết lý Nho giáo của thời phong kiến không thích hợp và lỗi thời. Điều này chỉ đúng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 19. Chính cụ Nguyễn thượng Hiền đã nhận thức được điều này, bởi vậy cụ đã bỏ chức Đốc Học Nam Định, trốn sang Trung Hoa, hoạt động cách mạng, và cùng cụ Phan Bội Châu sáng lập phong trào Đông Du và Việt Nam Quang Phục Hội.
Tuy nhiên vào thời kỳ lập quốc, sau khi đã đành được độc lập sau gần 1000 năm phải lệ thuộc vào Trung Hoa, triết lý Nho giáo về NHÂN, ĐỨC, HIẾU và bàn về bổn phận của kẻ sĩ và trách nhiệm của người làm quan, cũng như quyền hạn và bổn phận của nhà vua đã tạo dựng nên những triều đại kỷ cương và hùng mạnh của nước Việt Nam như ĐINH, LÊ, LÝ, TRẦN, HẬU LÊ. Nho giáo và khoa cử đã đào tạo nhiều nhân tài cho nhu cầu đất nước qua nhiều lãnh vực như:
• Kế sách chính trị
• Ngoại giao
• Quân Sự
• Biên soạn quốc sử
• Văn học
Về kế sách chính trị, lịch sử đã nói về cụ Nguyễn Trãi đã cố vấn cho Lê Lợi, trong 10 năm kháng chiến chống quân Mình, dành lại độc lập, và giúp vua Lê Lợi sáng lập ra triều Hậu Lê truyền
3
được 365 năm. Bài Bình Ngô Đại Cáo của cụ đã đi vào văn học sử Việt Nam. Ngoài ra lịch sử còn có nhiều vị quan tài giỏi khác như Tô Hiến Thành, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ, vv…
Về phương diện ngoại giao, các vị vua nhà Lý, Trần, Lê, đều tìm cách ngoại giao và giảng hòa với Trung Hoa sau nhiều cuộc binh đao mặc dù đã thắng trận. Năm 1076, tuy thắng quân Tống, nhưng vua Lý vẫn sai sứ đem voi sang cống và xin hòa. Năm 1288, sau khi đại phá quân Nguyên, nhà Trần đã phái sứ sang Trung Hoa xin giảng hòa để tránh việc binh đao và khỏi làm dân chúng phải chịu khổ sở. Năm 1427, sau khi đuổi quân Minh về Tàu, vua Lê Thái Tổ đã sai sứ sang Trung Hoa xin cầu phong. Năm 1788, sau khi đại phá quân Thanh, vua Quang Trung cũng xin giảng hòa. Những vị quan được cử làm chánh sứ sang Trung Hoa đều là những bậc đại khoa, những nhà ngoại giao lỗi lạc.
Về lãnh vực quân sự, nhiều vì quan lãnh chức Binh Bộ Thượng Thư (tương đương với Tổng Trưởng Quốc Phòng) đã giúp nhà vua và triều đình tổ chức một quân đội hùng mạnh. Nhiều vị quan như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương, vv… đã tự cầm quân đánh giặc.
Về lãnh vực soạn sách sử, nhiều vị quan đã phụng mệnh vua soạn những bộ sử có giá trị như Tiến Sĩ Ngô Sĩ Liên soạn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
Về văn học, Bảng Nhãn Lê Quý Đôn là một nhà học giả đã soạn nhiều bộ sách rất có giá trị như Vân Đài Loại Ngữ, Phủ Biên Tạp Lục, Kiến Văn Tiểu Lục, Quế Đường Thi Tập, vv.. Bộ sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chỉ được viết bởi Phan Huy Chú năm 1819 là một bộ sách rất có giá trị cho các nhà khảo cứu về lịch sử, địa dư, phong tục, nhân vật, vv… thời Lê.
Một trong những di tích văn hóa lịch sử là Văn Miếu Quốc Tử Giám, do vua Lý Thánh Tông đầu tiên xây năm 1070. Hiện nay Văn Miếu còn lưu giữ 82 tấm bia đã ghi tên họ và quê quán của 1307 vị Tiến Sĩ Nho Học từ năm 1442 (Niên hiệu Đại Bảo, năm thứ 3) đến năm 1779 (Niên hiệu Cảnh Hưng, năm thứ 40). Vị TếTửu (tương đương với Hiệu Trưởng) đầu tiên của Quốc Tử Giám là cụ Chu văn An.
Năm 2007, tôi đã về thăm Văn Miếu Hà Nội, và cũng nhân dịp để tìm bia Tiến Sĩ của cụ Tổ họ Phạm là cụ Phạm Đồng Viện, thôn La Đôi, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cụ đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất, năm Cảnh Hưng thứ 27 và làm quan đến chức Hàn Lâm Thị Giảng, Đông Các Đại Học Sĩ thì về trí sĩ. Sau khi tìm thấy bia Tiến Sĩ có ghi tên của cụ, tôi đã mua cuốn sách Văn Miếu Quốc Tử Giám và 82 bia Tiến Sĩ để đọc bản dịch bài ký của bia Khoa Bính Tuất (1766), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 27. Tôi đã ngạc nhiên và thích thú khi được biết rằng người soạn bài văn bia là cụ Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm, làm quan chức Công Bộ Thượng Thư và cụ chính là thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du, tác giả truyện Kim vân Kiều. Trong số 11 vị Tiến Sĩ của Khoa Bính Tuất nầy, có 2 vị đã đi vào văn học sử và lịch sử, đó là cụ Ngô Thì Sĩ, và cụ Lý Trần Quán.
4
Cụ Ngô Thì Sĩ làm quan đến chức Đốc Trấn Lạng Sơn và đã soạn nhiều bộ sách giá trị như Việt Sử Tiêu Án, Quốc Sử Tục Biên, Ngọ Phong Văn Tập, vv..
Cụ Lý Trần Quán người làng Vân Canh tỉnh Hà Đông, làm quan đến chức Hàn Lâm Học Sĩ, thiêm sai Tri Lại Phiên. Cụ theo chúa Trịnh, khi ngai chúa của họ Trịnh sụp đổ, Trịnh Khải phải lưu vong, Cụ gặp chúa Trịnh Khải ở làng Hạ Lôi, chẳng may người học trò của cụ là Nguyễn Trang làm phản bắt chúa Trịnh nộp cho quân Tây Sơn. Cụ Lý Trần Quán rất ân hận khi hay tin chúa Trịnh Khải tự vẫn. Cụ buồn khổ vô cùng và quyết định chết theo chúa. Cụ tự sắm một cỗ áo quan và một chỗ đất chôn, rồi nằm trong áo quan nhờ người chôn sống. Trước khi đậy nắp áo quan, cụ đã đọc hai câu:
Tam niên chí hiếu dĩ hoàn
Thập phần chi trung vị tận
Nghĩa là:
Ba năm đạo hiếu đã đầy đủ
Một nghĩa vua tôi chưa hết nào
Sở dĩ cụ tự hào là đã làm tròn đạo hiếu, bởi vì khi thân mẫu cụ mất, cụ đã làm nhà ở ngay bên cạnh mộ mẹ, ba năm để tang, nhịn ăn, chịu đói khổ để làm tròn đạo hiếu. Cụ đã thấm nhuần triết lý Nho giáo, đã chọn cái chết để bộc bạch tấm lòng tôi trung của mình. Sĩ khí của các cụ ngày xưa thật là đáng kính trọng.


Cụ Nguyễn thượng Hiền khi đang làm Đốc Học Nam Định thì xảy ra việc người Pháp phế lập vua Thành Thái. Cụ đã hết sức công phẫn, đến phủ Toàn Quyền chất vấn và yêu cầu người Pháp phục lại ngôi vua như cũ. Khi không có kết quả, cụ đã khẳng khái từ quan, và hoạt động cách mạng cùng với cụ Phan Bội Châu và các đồng chí của cụ trong Việt Nam Quang Phục Hội để dành độc lập cho Việt Nam.
Chúng ta, các cựu học sinh Nguyễn Thượng Hiền, thật hãnh diện là tên của cụ đã được đặt cho ngôi trường thân yêu của mình.

Phạm Đình Kính
12B-1974

Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn huyền Anh, Việt Nam Danh Nhân Tự Điển.
2. “Văn Miếu Quốc Tử Giám và 82 Bia Tiến Sĩ”, Hà Nội, 2002
3. Ngô thị Quý Linh, “Lược Sử Triết Lý Giáo Dục Việt Nam Từ Lập Quốc đến đầu Thế Kỷ 20”, Ý Linh Xuất bản, 1997.
4. Phạm Tộc Thế Phả, Thôn La Đôi, xã Hợp Tiến, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, cụ Phạm Đình Bằng chuyển sang Việt Ngữ.

0 0 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments