TẢN MẠN VỀ THƠ CHỮ NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH QUỐC VĂN TRƯỚC 1975
Phạm Đình Kính
12B-1974
Tôi bắt đầu học lớp 8 trong niên khóa đầu tiên của Trường Tân Bình Nguyễn Thượng Hiền (1969-1970).Một trong các môn học mà tôi thích là Quốc Văn. Niên khóa đầu lớp 8-1, tôi học Quốc Văn với cô Bùi Mỹ Dương và sau đó là cô Dương Kim Chung. Trong các năm lớp 9-1, 10B & 11B, tôi được học môn Quốc Văn với cô Nguyễn Thị Mộng Thúy.
Bài viết này sẽ nói sơ qua về môn hoc Quốc Văn trong chương trình Trung học trước năm 1975 và các sáng tác về Thơ Nôm. Phần I của bài này sẽ nói về hai thi sĩ: Vua Lê Thánh Tông (thế kỷ thứ 15) và Bà Huyện Thanh Quan (thế kỷ thứ 19)
Môn Quốc Văn trong chương trình trung học gồm ba phần chính:
1. Văn học sử: Đại cương về văn học sử Việt Nam từ thời khởi thủy đến thời hiện kim, với mục đích mở mang kiến thức phổ thông.
2. Văn thể: Thơ Lục Bát, Thơ Song Thất Lục Bát, Thơ Đường Luật, và Thơ Mới
3. Trích giảng:
• Lục Vân Tiên, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Đoạn Trường Tân Thành (Kim Vân Kiều).
• Nhóm Đông Dương tạp chí (Nguyễn Văn Vĩnh), và nhóm Nam Phong (Phạm Quỳnh),
• Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh (với các tác phẩm Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng), Khái Hưng (Nửa Chừng Xuân), Hoàng Đạo (Mười Điều Tâm Niệm, Con Đường Sáng), Thạch Lam (Gió Đầu Mùa, Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường).
• Các tác giả về Thơ Nôm gồm vua Lê Thánh Tôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, etc.
Xin nói qua về Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ là hai hệ chữ dùng để viết tiếng Việt (Quốc Âm) và có vài trò khác nhau trong tiến trình lịch sử và văn hóa.
Ban đầu để viết tiếng Việt, Tổ tiên chúng ta đã đặt ra chữ Nôm bằng cách mượn dạng chữ Hán y nguyên để ghi âm tiếng Việt cổ (mượn âm để chép tiếng Quốc âm). Dần dần phép ghép hai chữ Hán lại với nhau, một phần gợi âm, một phần gợi ý được dùng có hệ thống hơn. Kể từ thời Lê về sau số lượng sáng tác bằng chữ Nôm tăng dần trong suốt 500 năm từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Tuy nhiên các văn bản hành chính của triều đình thì gần như toàn phần đều dùng chữ Hán. Ngoại lệ là những năm tồn tại ngắn ngủi của nhà Hồ (thế kỷ 15) và nhà Tây Sơn (thế kỷ 18). Hồ Quí Ly sau khi cướp ngôi nhà Trần đã bắt dân chúng và triều đình dùng chữ Nôm trong việc học hành thi cử và hành chính. Vua Quang Trung sau khi đại phá quân Thanh, cũng bắt dùng chữ Nôm để chứng tỏ dân tộc ta không lệ thuộc vào Trung Hoa.
Chữ Quốc ngữ được các nhà truyền giáo Dòng Tên tại Việt Nam sáng chế dựa trên ký tự La Tinh vào nửa đầu thế kỷ 17 và suốt một thời gian dài tới cuối thế kỷ 19 chỉ được lưu hành trong việc truyền đạo Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên một số kinh sách viết bằng chữ Nôm vẫn được người Công giáo sử dụng cho đến đầu thế kỷ 20.
Thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa muốn tăng cường ảnh hưởng của tiếng Pháp và hạn chế ảnh hưởng của Hán học cùng với chữ Hán. Sự giảm sút của chữ Hán cũng dẫn đến sự suy giảm của chữ Nôm. Chính quyền Pháp đã cổ súy chữ Quốc ngữ , đồng thời các phong trào cải cách như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí hình thành trong giai đoạn này đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ. Sau khi khoa thi Hương cuối cùng được bãi bỏ vào năm 1918, tiếng Việt dần dần được viếtbằng chữ Quốc ngữ, hiện nay chỉ rất ít người, chủ yếu là các học giả, hoặc là các sinh viên theo học chương trình Việt Hán tại các đại học là có thể đọc và viết được chữ Nôm.
Phần I của bài viết này sẽ nói về vua Lê Thánh Tông với những sáng tác tiêu biểu của Ngài qua Hồng Đức Quốc Âm thi tập (thế kỷ 15) và Bà Huyện Thanh Quan (thế kỷ 19). Thơ Quốc Âm viết bằng chữ Nôm trong giai đoạn này được gọi là Thơ Nôm.
Xin nói qua về tiểu sử của vua Lê Thánh Tông và việc lên ngôi vua của ngài.
Vua Lê Thánh Tông là con thứ tư của vua Lê Thái Tông. Vua Lê Thái Tông lên ngôi lúc 11 tuổi sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà. Vua Lê Thái Tông có con trai với 4 người vợ chính thức được sắc phong, đó là các bà: Dương Thị Bí, Nguyễn Thị Anh, Bùi Quý Nhân, và Ngô Thị Ngọc Dao,
Bà Dương Thị Bí sinh con trai đầu tiên là Lê Nghi Dân và được phong làm thái tử, Theo Đại Việt sử ký toàn thư, bà Dương Thị Bí kiêu căng vì có con được lập làm thái tử, lại còn thiếu lễ độ với nhà vua nên vua Thái Tông đã giáng bà Dương Thị Bí xuống làm thứ nhân và truất ngôi Thái Tử của Lê Nghi Dân.
Bà Bùi Quý Nhân (con gái của qua đại thần Bùi Cầm Hổ) sinh ra hoàng tử thứ hai là Lê Khắc Xương
Bà Nguyễn Thị Anh sinh ra hoàng tử thứ ba là Lê Bang Cơ. Bà được nhà vua sủng ái và đã thuyết phục được vua Lê Thái Tông lập hoàng tử Bang Cơ làm Thái Tử.
Bà Ngô Thị Ngọc Dao (con gái của quan đại thần Ngô Tự) sau đó sinh ra hoàng tử thứ tư là Lê Tư Thành (sau được triều đình tôn là vua Lê Thánh Tông sau này).
Vua Lê Thái Tông là một vị vua thông mình và quyết đoán. Vài năm sau khi nhà vua trẻ lên ngôi, quan phụ chính đại thần Lê Sát vì lộng quyền và lấn át nhà vua trẻ nên đã bị Ngài trị tội, và người con gái lúc đó đang là phi tần của vua Thái Tông cũng bị phế làm thương dân. Sau đó mọi việc trong nước đều tự mình Ngài quyết định, tiếp tục gây dựng một triều đình kỷ cương với quân đội hùng mạnh.
Xin trở lại về bà Ngô thị Ngọc Dao. Bà là người hiền đức, con gái của quan đại thần Ngô Tự. Khi bà có thai hoàng tử Lê Tư Thành, tức vua Lê Thánh Tông sau nầy, thì nằm mơ thấy rồng hiện ra và rồi mơ thấy Thuợng Đế sai một tiên đồng xuống đầu thai làm con bà. Khi bà Ngọc Dao đem chuyện này kể ra cho những người trong hoàng cung nghe, thì phe của bà Nguyễn thị Anh và thái tử Bang Cơ nghĩ rằng bà Ngọc Dao sau khi sanh con trai sẽ đoạt ngôi Thái Tử của Bang Cơ.
Nhiều phe nhóm đã tìm cách dèm pha bà với vua Lê Thái Tông và đòi nhà vua trị tội, nên Nguyễn Trãi là bạn thân của cụ Ngô Từ đã tìm cách đưa bà ra khỏi hoàng
cung và ở tạm tại chùa Huy Văn, chờ sau khi sanh hoàng tử xong sẽ đưa về lại hoàng cung.
Khoảng ít lâu sau khi Lê Thái Tông đi duyệt binh tại Chí Linh, có ghé thăm vợ chồng Quốc Sư Nguyễn Trãi và Nguyễn thị Lộ tại Côn Sơn. Quốc Sư Nguyễn Trãi làm quan đến chức Nhập Nội Hành Khiển thì về trí sĩ tại Côn Sơn. Vua Lê thái Tông sau khi thăm vợ chồng Nguyễn Trãi, thì trở về hoàng cung. Trên đường về nhà vua đã nghỉ đêm tại Lệ Chị Viên và mất ở đây. Vua Lê Thái Tông lên ngôi lúc 11 tuổi, mất năm 1442, trị vì đuoc 9 năm, thọ 20 tuổi. Một số các quan đã buộc tội là nhà vua đã bị đầu độc taị nhà Nguyễn Trãi và phạt gia đình ông án tru di tam tộc. Đây là nỗi oan khuất của vợ chồng Nguyễn Trãi. Bà Nguyễn thị Lộ lúc đó đã ngoài 50 hơn nhà vua 30 tuổi, không có chuyện nhà vua bắt bà về làm thứ thiếp. Vua Lê Thánh Tông sau khi lên ngôi đã phục chức lại cho cụ Nguyễn Trãi và bãi bỏ lệnh truy tầm các con cháu của cụ.
Cụ Nguyễn Trãi là đệ nhất công thần, tác giả bài Bình Ngô Đại Cáo, cụ đỗ thái Học Sinh (Tiến Sĩ) đời nhà Trần. Vua Lê Thánh Tông đã cho tìm kiếm các con cháu của cụ còn sót lại và ban cấp 100 mẫu ruộng để lo thờ cúng cụ Nguyễn Trãi. Trong số các con cháu của cụ, có Nguyễn Anh Vũ, đậu thi Hương và được bổ làm Tri Huyện.
Sau khi Thái Tông mất, triều đình tôn Thái Tử Bang Cơ lên ngôi vua là Lê Nhân Tông, đặt niên hiệu là Thái Hoà. Lúc đó Lê Nhân Tông mới 2 tuổi, Bà mẹ Ngài là Thái hậu Tuyên Từ Nguyễn Thị Anh phải buông rèm nhiếp chính. Nhờ sự trợ giúp của các quan đại thần và sự thông minh của Bà Tuyên Từ Thái Hậu, triều đình vẫn có kỷ cương và nhân dân được thái bình.
Khi nhà vua được 12 tuổi, Thái hậu trả quyền chính cho vua Lê Nhân Tông, rồi lui về ở cung riêng. Vua đổi niên hiệu là Diên Ninh, đại xá cho thiên hạ. Ngài biết giữ cơ đồ của Tổ Tiên, thương yêu và chăm sóc dân chúng. Người đời bấy giờ đều ca ngợi tài năng và đức độ của Ngài.
Trước kia, Bà Dương Thị Bí là mẹ Nghi Dân vì có lỗi, nên Nghi Dân bị vua Thái Tông truất làm thái tử, Nghi Dân vẫn ngầm chứa mưu gian để cướp ngôi báu, đã cùng bọn đồng đảng lẻn vào cung giết chết vua Lê Nhân Tông và Tuyên Từ Hoàng thái hậu vào năm 1459.
Lê Nhân Tông bị giết chết lúc mới 19 tuổi, làm vua được 17 năm.
Nghi Dân tự lập làm vua, nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt giáng Nghi Dân, rồi lập Hoàng tử Tư Thành lên làm vua, đó là Lê Thánh Tông.
Giai thoại kể lại rằng khi các quan đến rước Lê Tư Thành để lên ngôi vua, thì Hoàng Tử Tư Thành đã tế nhị nhắc đến người anh là vị Hoàng Tử thứ ba Lê Khắc Xương. Các quan trả lời là đã đến nói chuyện với Hoàng Tử Khắc Xương, nhưng Hoàng Tử từ chối. Trong số các quan đến đón Hoàng Tử Tư Thành, vẫn còn vài người chưa hoàn toàn được thuyết phục mặc dù đã nghe danh Hoàng Tử Tư Thành thông mình mẫn tiếp và có vẫn tài xuất chúng, một phần nghi ngờ là do Hoàng Tử Tư Thành được sinh ra ngoài hoàng cung, không biết chắc là con của vua Lê Thái Tông.
Một vị quan đã yêu cầu Hoàng Tử đọc cho một sáng tác vì nghe nói Hoàng Tử văn chương lỗi lạc. Hoàng Tử đã xin cho ra đầu đề. Vị quan nhìn quanh thì thấy một con cóc đang nằm dưới gầm giường liền ra đầu đề Con Cóc.
Hoàng Tử Tư Thành đã đọc ngay bốn câu:
Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi.
Chép miệng nuốt ba con kiến gió,
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời.
Các quan đều khâm phục. Đúng là khẩu khí của một vị Thiên Tử, va rước Hoàng Tử về triều đình, tôn lên làm vua là Lê Thánh Tông.
Vua Lê Thánh Tông lên ngôi Hoàng đế, xưng làm Thiên Nam Động Chủ, đặt niên hiệu là Quang Thuận (sau đổi thành Hồng Đức).
Trong 38 năm trị vì, vua Lê Thánh Tông đã ban hành rất nhiều chính sách về hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp. Nhà vua cũng hết sức chú trọng phát triển giáo dục và mở rộng quy chế các khoa thi chọn người tài cho quốc gia. Vua Thánh Tông còn cho huấn luyện quân đội, trực tiếp chỉ huy các cuộc Nam tiến. Về phía Bắc, Ngài thường nói với các quan trong triều là bất cứ lúc nào cũng phải cảnh giác không để mất một tấc đất của vua Lê Thái Tổ đã để lại.
Nhà vua thời trai trẻ cũng là một người đa tình lãng mạn. Chuyện kể rằng khi còn là Hoàng Tử, nhà vua đã có dịp về quê nội Thanh Hoá, để thăm lăng tẩm của Tiên Đế, và thân mẫu là bà Ngo Thị Ngọc Dao, lúc này được giao phận sự lo việc thờ tự trong Thái miếu của vua Lê thái Tông. Một lần đi dạo chơi trên sông Tống Sơn, thấy một cô thôn nữ đang vo gạo dưới bến sông, ông đã cảm hứng vẻ đẹp của thôn nữ và cảnh đẹp thiên nhiên, nên đã đọc một vế đối:
– Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả.
Nghe lời gợi ý, cô thôn nữ đã đối lại:
– Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hãy lo cho.
Hoàng Tử rất kính phục, và dò hỏi được biết tên là Nguyễn thị Ngọc Hằng, con gái quan đương triều Nguyễn Đức Trung. Khi lên ngôi, nhà vua đã cưới bà Ngọc Hằng và bà trở thành Trường Lạc Hoàng Hậu.
Trong đời nhà vua rất kính trọng hai người đàn bà: Thân mẫu là bà Ngô thị Ngọc Dao, và bà vợ Trường Lạc Hoàng Hậu. Bà Ngọc Dao đã biết cách giáo dục và dạy Hoàng Tử Tư Thành thành một trang thanh niên văn chương lỗi lạc, thông minh tuấn tú. Bà Trường Lac Hoàng Hậu cũng biết dạy con là Thái tử Lê Tăng, sau này lên ngôi là vua Lê Hiến Tông.
Nhà vua rất trân trọng người phụ nữ. Bộ luật Hồng Đức dưới đời vua Lê Thánh Tông đã dành nhiều quyền cho người phụ nữ dưới chế đó phong kiến.
Chúng ta khi học Quốc Văn với cô Mộng Thúy chắc vẫn còn nhớ bài thơ Vịnh Miếu Vợ Chàng Trương của vua Lê Thánh Tông:
Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ,
Làn nước chi cho luỵ đến nàng.
Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chị mượn đến đàn tràng?
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Bà lấy chồng họ Trương, chồng đi lính thú, bà ở nhà nuôi con dại. Thường tối đến khi đứa con hỏi cha đâu, thì chờ khi thắp đèn lên bà chỉ lên bóng vách mà bảo với con rằng đó là cha nó. Đến khi cha về đứa con không nhận và nói rằng cha nó thường tối mới đến. Người chồng nghi bà không chung thủy. Bà chẳng biết làm sao giải nỗi oan ức, bèn nhảy xuống sông tự tử.
Về sau này khi bà Trương đã mất, khi thắp đèn lên đứa con chỉ bóng trên vách nói với cha rằng: “đó mới thật là cha con”. Người chồng lúc ấy hiểu ra thì đã quá muộn, bèn ra bờ sông nơi bà trầm mình lập đàn chay để giải oan cho vợ.
Người đời sau lập miếu thờ bà trên bờ sông Hoàng Giang thuộc làng Vũ Điện, tỉnh Hà Nam.
Bài thơ này vua Lê Thánh Tông cho khắc vào bia đá trước miếu bà Trương.
Một giai thoại nữa về vua Lê Thánh Tông là trong một dịp đầu Xuân, vua Lê Thánh Tông ngự thăm nhà Thái Học (Văn Miếu), lúc về ghé qua chùa Ngọc Hồ.Tới nơi, vua thấy cảnh trí nho nhã, hoa cỏ xanh tươi, lại thêm từ trên gác chuông…có một cô gái nhan sắc lộng lẫy đang thả hồn vào cảnh thiền, rồi thong thả ngâm nga mấy câu thơ:
”Ở đây mến cảnh, mến thầy
Tuy vui đạo Phật, chưa khuây lòng người”.
Nhà vua vội vàng lại gần, bắt chuyện: “Nghe những câu hát thanh tao, biết nàng là trang tài nữ. Hãy vui lòng xướng họa với Trẫm để kỷ niệm cuộc tao phùng này”.
Người con gái không tỏ vẻ ngượng ngùng, hay bối rối mà nhoẻn miệng cười tươi tắn: ”Nhà vua thích xướng họa với thiếp ư? Vậy xin nhà vua cho biết trước lời châu ngọc?”.
Vua Lê Thánh Tông lấy hai câu thơ lục bát trên làm đầu đề và ứng khẩu:
‘‘Ngẫm sự trần duyên khéo nực cười
Tuy vui đạo Phật chửa khuây người
Chày kinh mấy khắc tan niềm tục
Hồn bướm ba canh lẫn sự đời
Bể thảm muôn tầm mong tát cạn
Sông ân ngàn trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây chín rõ mười”.
Nghe xong, thiếu nữ tỏ lời kính phục tài thơ của hoàng đế Lê Thánh Tông, nhưng xin phép cho đổi mấy chữ. Nhà vua tuy thoáng sửng sốt nhưng đồng ý.
Thiếu nữ bèn đọc lại bốn câu thơ ở giữa bài đã sửa thành:
”Gió xuân đưa kệ tan niềm tục
Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời
Bể khổ muôn tầm mong tát cạn
Nguồn ân ngàn trượng dễ khơi vơi…”
Vua hết sức khen ngợi và ngỏ ý muốn triệu người đẹp về cung. Tục truyền rằng, kiệu đi tới cửa Đại Hưng thì người con gái đẹp chợt biến mất. Lấy làm lạ, vua liền sai dựng ở đó một cái lầu gọi là Vọng Tiên Lâu để lưu dấu người tiên nữ.
Xin tạm ngừng viết về Thơ Nôm của vua Lê Thánh Tông ở đây, để nói đến một nữ sĩ nổi tiếng về Thơ Nôm ở thế kỷ thứ 19, đó là Bà Huyện Thanh Quan. Chồng bà làm chức quan Tri Huyện Thanh Quan, nên bà được dân trong huyện gọi là Bà Huyện Thanh Quan.
Bà nổi tiếng với bài thơ Qua Đèo Ngang được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.
Bài này đã được bộ Quốc Gia Giáo Dục đưa vào chương trình Quốc Văn trước năm 1975.
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời, non,nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Linh mục Nguyễn văn Thich, giáo sư viện đại học Huế, đã dịch bài thơ này sang chữ Hán rất tài tình như sau:
Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà,
Yên ba gian thạch, thạch gian hoa.
Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu,
Thị tập giang biên, cá cá đa.
Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc,
Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia.
Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải,
Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.
Nhân dịp phái đoàn của cố tổng thống Ngô Đình Diệm sang thăm Đài Loan năm 1959, linh mục Nguyễn Văn Thích trong phái đoàn tháp tùng Cố Tổng Thống đã dịch bài thơ này sang chữ Hán tại bữa tiệc do Thống Chế Tưởng Giới Thạch khoản đãi. Trong thực đơn có món giá cô nên cụ đã nảy ý dịch rồi chép bài dịch sau tờ thực đơn. Các quan khách dự tiệc đã hết sức khâm phục tài uyên thâm của cụ.
Cũng xin nói qua về Linh Mục Nguyễn Văn Thích. Ngài xuất thân từ một danh gia vọng tộc, là con của cụ Tổng Đốc Quảng Trị, Lễ Bộ Thượng Thơ Nguyễn Văn Mại. Cụ làm giáo sư Đaị Học Văn Khoa và Sư Phạm kiêm Giám Đốc Viện Hán Học Huế. Cụ là một nhà tu hành gương mẫu, đạo đức và thanh bạch. Lương giáo sư của cụ được gửi vào nhà Dòng để giúp đỡ các em mồ côi. Dạy học hơn 30 năm, cụ vẫn lái chiếc xe đạp từ thời 1945. Sau này Đức Cha Tổng Giám Mục Địa Phận Huế đã không cho cụ đi dạy bằng xe đạp, vì sợ tai nạn và cấp xe riêng cho cụ. Cụ mất năm 1978, thọ 88 tuổi.
Xin tạm ngưng bài viết tản mạn về Thơ Nôm ở đây.
Kỳ tới sẽ viết về các nhà thơ Nôm nổi tiếng thế kỷ thứ 19 là Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương.
Phạm Đình Kính
12B-1974
June 2, 2019 – Portland, Oregon.
Bài viết rất công phu chứng tỏ Đình Kính đã bỏ rất nhiều thời gian để đọc và viết. Cám ơn bạn.
Xin thành thật cảm ơn bạn Lê Khánh Long đã có lời khuyến khích. Thân mến, Kính
Tuy đãrất lâu không gặp Kính nhưng DT cũng được nghe về bạn , một trong những người bạn TB 74 thành đạt ở nước ngoài . Nay được đọc thêm bài viết của bạn , thật ngưỡng mộ vô cùng. Cám ơn bạn giúp DT nhớ lai chút ít về Quốc Văn trước 75, một môn học mà DT ngán nhất khi còn học phổ thông. Chúc sức khỏe bạn và gia đình.
Xin cảm ơn bạn Diệu Tịnh đã có lời khích lệ và khen tặng. Hy vọng sẽ có dịp gặp Diệu Tịnh và các bạn lớp 12AB 74 TB-NTH của chúng ta trong những lần hội ngộ tới.
Năm nay là kỷ niệm đúng 45 năm kể từ ngày chúng ta rời mái trường NTH. Chúc Diệu Tịnh và gia quyến luôn khỏe mạnh và vui vẻ. Thân mến, Kính