TẢN MẠN VỀ THƠ CHỮ NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH QUỐC VĂN TRƯỚC 1975
Phần II – Nguyễn Khuyến.
Phạm Đình Kính
12B-1974
Cụ Nguyễn Khuyến có tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễn Chi. Cụ sinh năm 1835 (Ất Mùi), tại xã Hoàng Xá, tỉnh Hà Nam, mất năm 1909 thọ 75 tuổi. Cụ Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có truyền thống khoa bảng. Cụ tổ bốn đời là Nguyễn Tông Mại, đỗ tiến sĩ triều Lê, làm quan đến Hiến sát sứ Thanh Hoá. Cha cụ cũng đỗ ba khoa tú tài, làm thầy đồ dạy học.
Thuở nhỏ, Nguyễn Khuyến học với cha. Năm lên 8 tuổi, ông theo gia đình về sống ở quê nội ở làng Và, xã Yên Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Năm 17 tuổi, Nguyễn Khuyến lập gia đình, lần đầu tham dự kỳ thi Hương nhưng không đỗ. Sau đó ít lâu, cha mất, nên Nguyễn Khuyến phải đi dạy học để tự kiếm sống và nuôi mẹ. Nhưng mẹ ông không đồng ý, bà vẫn cặm cụi dệt vải thuê cùng con dâu lo cho Nguyễn Khuyến ăn học.
Thông cảm hoàn cảnh của chàng nho sinh nghèo, ham học và có hiếu, nên cụ nghè Vũ Văn Lý đă bao bọc Nguyễn Khuyến ăn học.Tuy nhiên con đường khoa cử của Nguyễn Khuyến lận đận, từ đó đến năm 29 tuổi, ông phải đi thi Hương vài khóa, và cuối cùng đậu thủ khoa thi Hương (Hương Nguyên hay còn gọi là Giải Nguyên) vào năm Giáp Tý 1864, nhưng năm sau vào Kinh Đô thị Hội Nguyễn Khuyến bị trượt.
Sau đó, từ tên Thắng ông đổi sang thành Khuyến để tự khích lệ mình cố gắng dùi mài kinh sử, ông được nhận vào học trường Quốc Tử Giám ở Huế. Sau thêm mấy năm dùi mài kinh sử, đến năm Tân Mùi 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên, năm đó ông đã 36 tuổi, vào thi đình, ông đỗ Đình Nguyên, vì đều đỗ đầu ở cả ba kỳ thi, nên vua Tự Đức ban cho ông cờ biển vinh qui với hai chữ Tam Nguyên, cũng từ đó người đương thời gọi Nguyễn Khuyến là Tam Nguyên Yên Đổ.
Nguyễn Khuyến bắt đầu ra làm quan và lần lượt giữ những chức vụ như Đốc học Thanh Hoá, Án sát Quảng Bình, Bố chánh Quảng Nam, Thương biện Hà Nội, Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc. Thế nhưng, làm quan trong một triều đại bất lực, tận mắt chứng kiến sự đô hộ của người Pháp, cụ viện cớ đau mắt, xin từ quan vào năm 50 tuổi (1885) và về quê dạy học, vui thú điền viên. Đây chính là một hành động chứng tỏ sự bất hợp tác của cụ đối với triều đình và người Pháp.
Nguyễn Khuyến đặc biệt có tài về thơ Nôm và thơ cụ đặc biệt sắc sảo và sinh động. Con người của cụ hiển hiện trong thơ khá chân thật, rõ ràng, một tâm hồn thơ tiêu biểu cho bản sắc Việt Nam. Cái đặc tính dịu dàng, kín đáo, không ồn ào nhưng hóm hỉnh, trong sáng và sâu sắc, tế nhị, là sản phẩm tinh thần độc đáo của những làng quê xanh ngắt với những lũy trẻ bao bọc xung quanh.
Hãy xem cụ tả cảnh mùa Thu qua từng câu, từng chữ làm mê lòng người đọc qua ba bài thơ về mùa Thu sau đây:
Thu Điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu Ẩm
Năm gian nhà nhỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm khuya đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không viền cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
Thu Vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông chừng như khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào!
Mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến đã chở được cái hồn thu đặc sắc của quê hương Bắc Bộ. Mùa thu có lá vàng, có nước gợn nhẹ trên mặt ao, có những con đường làng quanh co hun hút vắng xa trong buổi chiều thiếu bước chân người, có cả bầu trời xanh ngắt treo lơ lửng giữa từng không bao la vời vợi. Mùa thu đến với những làn gió dịu nhẹ phảng phất lòng người, những làn gió hắt hiu tuy có gợi chút buồn nhưng vẫn trong sáng.
Ông Đào trong bài thơ Thu Vịnh tức là Đào Tiềm, một danh sĩ đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng đời Tấn, cũng đã treo ấn từ quan, về sống với ruộng vườn, để giữ cho được cái khí tiết của mình. Qua Đào Tiềm, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ “cái tôi” của mình trong cảnh sắc mùa thu một cách khá đậm nét. “thẹn với ông Đào” là một cách bộc lộ tấm lòng thanh cao của cụ, thể hiện được cái tự hào khiêm tốn không chịu cộng tác với một triều đình làm nô lệ cho Pháp.
Cụ Nguyễn Khuyến rất chân thành về tình bạn. Trong thơ Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay thể hiện tình bạn đẹp đẽ chân thành, nhưng cho đến nay, chưa có bài thơ nào nói về tình bạn có thể sánh bằng bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Dương Khuê (1839 – 1902) người làng Vân Đình, tổng Phương Đình, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội), đỗ tiến sĩ năm 1868, là bạn thân của Nguyễn Khuyến.
Bài thơ khóc bạn này của cụ Nguyễn Khuyến đã nói lên nỗi lòng đau xót khôn nguôi của cụ trước người bạn văn chương tri kỷ qua đời.
Khóc Dương Khuê
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời;
Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng sao đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Nhân đây cũng xin nhắc lại một giai thoại văn chương giữa cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và cụ Nghè Vân Đình Dương Khuê. Hai người là bạn thân thiết và lại thường hay thi tài văn chương với nhau. Có lần đương cùng đi chơi trên đường cái quan, chợt thấy đằng trước có người ăn mày để bị trên bờ cỏ để lẩn vào sau bụi cây làm một việc cần. Cụ nghè Vân Đình đố Tam Nguyên Yên Đổ tìm được điển tích nào thích hợp với sự kiện ấy.
Cụ Yên Đổ đã tủm tỉm ứng khẩu đọc:
Phương thốn loạn hĩ, sả Bị chi Tháo.
Câu đối lấy tích trong Truyện Tam Quốc – Từ Thứ được thư của mẹ, trong bụng rối loạn, bỏ Lưu Bị đi sang với Tào Tháo.
Bị đây là bị ăn mày, mà tháo từ vị trí danh từ đã nhảy sang một động từ có tính cách khẩn cấp…bất khả kháng.
Không những thông thạo về Hán Học, và giỏi về thơ Nôm, cụ Nguyễn Khuyến còn giỏi về nói lái và chơi chữ, sau đây xin kể thêm một vài giai thoại về tài chơi chữ của cụ:
Tục truyền, một làng nọ cứ mỗi năm bị hỏa tai một lần, đề phòng thế nào cũng không thoát. Nhân có thầy địa-lý đi qua, ghé vào ngôi đình đầu làng nghỉ. Kỳ mục trong làng đem chuyện hỏi. Thầy cho biết tại nơi hướng đình làng, muốn khỏi cháy, phải nhờ một vị đại khoa nào viết cho mấy chữ yểm thì tự khắc sẽ yên.
Các tay kỳ mục nghe thầy cắt nghĩa phương nọ quẻ kia, ngũ hành bát quái, thao thao bất tuyệt, cho là phải, mới xuất quỹ làng mua một tấm vóc điều thật lớn, rồi đem lễ vật đi xin cụ Tam-Nguyên.
Nghe kể đầu đuôi sự tình, cụ bảo căng tấm vóc ra, rồi cầm bút đại tự, cụ thấm vào tô mực, sổ cho một nét thật lớn. Sổ xong, cụ bảo: Khỏi cắt nghĩa, thôi, các thầy cứ đem về treo lên, từ nay không còn cháy nữa đâu.
Thế là tấm vóc ấy được ngạo nghễ bay phất phới hàng ngày ở trước hương án đình. Làng ấy quả nhiên từ đó hết hỏa hoạn. Ai ai cũng phục tài cụ, nhưng có điều thắc mắc, không ai biết cụ sổ cho một nét như thế nghĩa là gì. Cả đến các ông cử ông nghè qua lại trông thấy cũng không thể đoán được. Sao chỉ có một nét trơ trọi mà linh đến như vậy?
– Thật cụ đỗ Tam-Nguyên có khác, chớ như mình đây đâu hiểu nổi được những uyên thâm của cụ!
Người ta tấm tắc phục cụ hoài. Một thời gian khá lâu sau, có người được dịp yết kiến cụ, đem chuyện ra hỏi… Cụ giảng:
– Có chữ nghĩa gì đâu. Làng họ hay cháy, họ đến nhờ ta yểm, và bảo thần làng ấy không biết chữ, nên ta cho họ thế; không phải là chữ như các thầy tưởng đâu, mà nó là cái « chày đứng », chày đứng đọc lái là « đừng cháy », ta phải làm thế để ra hiệu cho ông thần làng họ hiểu, ông ấy nể lời sẽ thôi không còn làm cháy nữa.
Một câu chuyện khác về chơi chữ là: Trong làng cụ lúc đó có một người làm lính cai kèn trong đội quân của Pháp. Sau khi về làng chú cất một ngôi nhà rất đẹp. Theo tập quán hồi đó, nếu cất nhà mới mà được mấy chữ của một vị đại khoa viết cho để treo lên trong nhà, thì thật là vinh dự,
Khi anh cai kèn đến xin chữ của Cụ Yên-Đổ lúc đó đã cáo quan, từ chối cộng tác với chính quyền Pháp, và về quê dạy học.
Cụ Yên-Đổ cười nói với các học trò rằng: Thầy định cho nó hai chữ « Đại Hạ ».
Tất cả đều đồng thanh khen hay vì ai cũng nghĩ hai chữ ấy có nghĩa là nóc nhà lớn, lấy tích trong câu: nhất mộc yên năng chị đại hạ… (một cây gỗ chống nổi nóc nhà lớn).
Cụ Tam-Nguyên định thế thôi. Không dè, trong số học trò lại có ông mau miệng đem nói với chú cai kèn nọ. Chú này không đến xin cụ nữa, vì sợ làm phiền, rồi cứ y lời, mượn người có hoa tay giỏi viết ngay hai chữ « Đại Hạ » lên.
Tới ngày ăn mừng tân gia, anh lại thỉnh cụ Yên-Đổ. Cụ tới lấy làm ngạc nhiên vì thấy hai chữ của mình đã không cánh mà bay lên sà nhà chú nọ. Cụ gọi chú Cai Kèn lại hỏi, chú kể lại đầu đuôi, cụ gọi ông học-trò, cũng có mặt tại bữa tiệc lại chất vấn: Thế nào, anh có hiểu nghĩa «Đại Hạ» là gì không?
– Dạ, bẩm Thầy, ông học trò thưa, là nóc nhà lớn ạ!
Cụ nói: Sao anh dốt như vậy? Anh không suy nghĩ sao? Nó là Cai Kèn ai mà lại cho chữ « Đại Hạ » như anh viết, hạ là nóc nhà bao giờ. Chữ ấy, ai treo lên chẳng được!
Ông học trò xanh mặt: Dạ, bẩm Thầy, cái đó lỗi ở con, xin Thầy chỉ giáo.
Cụ Tam-Nguyên cười nói: Nhưng thôi, thế cũng được, lỡ rồi, chẳng sao, anh viết chỉ sai một chữ thôi. Chữ « Đại » là to, anh viết đúng. Còn Hạ, chính chữ Hạ là mùa hè kia. Anh phải viết thế, mới hợp với nhà chú Cai Kèn này, vì « Đại Hạ » là hè to, hè to nói lái tò he, ấy đó chỉ vào việc chú ta làm nghề thổi kèn đó.
Tất cả mọi người trong bữa tiệc đều cười to, và khâm phục cách chơi chữ của cụ.
Xin trở lại với nhà Thơ Nôm Nguyễn Khuyến. Khi nói về cụ, thì không thể không nhắc đến cụ bà, một người nhà quê chân chất, nuôi chồng đỗ đến Tam Nguyên, làm đến Tổng Đốc ba tỉnh Sơn Hưng Tuyên, mà cụ bà vẫn sống thanh bạch, nhà quê. Nhất là từ khi cụ cáo quan về, thì cụ bà phải lam lũ cáng đáng mọi chuyện.
Hãy đọc đôi câu đối Nguyễn Khuyến khóc vợ, khi cụ bà mất:
Nhà chỉn rất nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm,
thắt lưng bó que, sắn váy quai cồng,
tất tưởi chân nam chân xiêu,
vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng,
búi tóc củ hành, buông quần lá tọa,
gật gù tay đũa tay chén,
cùng ai kể lể chuyện trăm năm?
Vào lúc cuối đời, cụ đã làm bài thơ Di Chúc để dặn dò con cháu:
Di Chúc
Kém hai tuổi xuân đầy chín chục
Số thầy sinh phải lúc dương cùng
Đức thầy đã mỏng mòng mong
Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy
Học chẳng có rằng hay chi cả
Cưỡi đầu người kể đã ba phen (1)
Tuổi là tuổi của gia tiên
Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày
Ấy thuở trước ông mày chẳng đỗ
Hóa bây giờ cho bố làm nên
Ơn vua chửa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời
Sống không để tiếng đời ta thán
Chết được về quê quán hương thôn
Mới hay trăm sự vuông tròn
Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì ?
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt
Kín chân tay đầu gói thời thôi
Cỗ đừng to lắm con ơi,
Hễ ai chạy lại con mời người ăn
Tế đừng có viết văn mà đọc
Trướng đối đừng gấm vóc mà chi
Minh tinh (2) con cũng bỏ đi
Mời quan đề chủ (3) con thì không nên
Môn sinh chớ bổ tiền đạt giấy
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi
Khách quen chớ viết thiệp mời
Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu
Chẳng qua nợ để cho người sống
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu !
Lại mang cái tiếng to đầu
Khi nay bày biện, khi sau chê bàn
Cờ biển của vua ban ngaỳ trước
Khi đưa thầy con rước đầu tiên
Lại thuê một lũ phường kèn
Vừa đi vừa thổi, mỗi bên dăm thằng
Việc tống táng nhung nhăng qua quýt
Cúng cho thầy một ít rượu hoa
Đề vào mấy chữ trong bia
Rằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu” .
(1) Câu này ý nói: nhà thơ qua ba kỳ thi đều đỗ đầu bảng (tam nguyên)
(2) Minh tinh: một mảnh lụa, mảnh vải hay mảnh giấy để tên hiệu, tên thụy, tuổi và chức tước, địa vị người chết trong khi đưa đám ma . Mảnh lụa, vải hoặc giấy này đem dán vào một cái khung bằng tre hoặc nứa rất cao rước đi trước quan tài, khi mai táng thì xong thì đốt cùng nhà táng. Có khi buộc vào cây nêu gọi là cây triệu
(3) Đề chủ: viết tên và hiệu người chết vào thần chủ (cái thẻ bằng gỗ để thờ người chết), vật tượng trưng cho linh hồn người chết. Việc này thường được coi như tôn trọng, nên phải nhờ người có chức tước làm.
Cụ trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5-2-1909 (tức ngày 15 tháng Giêng năm Kỷ Dậu), thọ 75 tuổi. Trước khi ra đi cụ vẫn đề thơ dặn dò con cháu và thể hiện một tấm lòng son sắc không hợp tác với người Pháp và triều đình với tham quan bán nước:
Đề vào mấy chữ trong bia
Rằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
Xin tạm chấm dứt bài viết về Cụ Tam Nguyên Yên Đổ và Thơ Nôm. Phần kế tiếp sẽ viết về nhà thơ Trần Tế Xương.
Phạm Đình Kính
12B-1974
November 28, 2019 – Portland, Oregon.
Bài viết khảo luận hay quá . Phạm Đình kính đã giỏi toán lại còn giỏi văn . Quả thật là siêu phàm đó nha .
Xin thành thật cảm ơn bạn Tăng A Pau đã có lời khích lệ và khen tặng. Chúc bạn Pau luôn nhiều sức khỏe, vui vẻ và thành đạt. Thân mến, Kính
[…] price of cialis 10mg […]
[…] tizanidine 2023 […]
[…] generic bupropion […]
[…] online casino real money georgia […]
[…] leovegas real money casino & sports betting […]
[…] orice cialis 20mg winn dixie deland […]
[…] nordicbet real money casino […]
[…] real money casinos top online casino real money […]
[…] toradol tablets […]
[…] where to buy protonix […]
[…] allopurinol 300 mg tablet […]
[…] naltrexone where to buy […]
[…] buy furosemide online […]
[…] zyrtec eye drops sale […]
[…] lamictal 50mg […]
[…] buy methotrexate philippines […]
[…] buy generic zofran online […]
[…] buy generic zofran online […]
[…] clonidine buy […]
[…] cheap rosuvastatin […]
[…] tadalafil aristo 20 mg […]
[…] cheapest generic tadalafil in the world 20 mg […]
[…] difference between cialis 20mg and tadalafil 60mg […]
[…] shop best price for cialis 20mg […]
[…] cheap neurontin online […]
[…] crestor tablets for cholesterol […]
[…] prilosec for cheap […]
[…] what is cheaper than nexium […]
[…] montelukast […]
[…] buy lasix in the uk […]
[…] where to buy cheap januvia […]
[…] buy synthroid (t4) […]
[…] how to order depakote level […]
[…] avodart combination flomax pills […]
[…] prednisolone 2023 […]
[…] where can i buy diltiazem cream […]
[…] buy amlodipine […]
[…] buy topamax no prescription […]
[…] buy colchicine cheap […]
[…] how effective is tadalafil 20mg […]
[…] buy allegra canada […]
[…] tadalafil 20mghow to take […]
[…] cheap cialis canada […]
[…] viagra sale online uk […]
[…] tadalafil tablets 20mg tadarise use what for […]
[…] tadalafil prescription 20 mg […]
[…] cialis 20 mg directions […]
[…] roulette en ligne […]
[…] cipro buy no prescription […]